Khẩu AK Ta Bá Chủ Thế Giới Song Song Cổ Đại

Chương 31: 31





Chuyến di chuyến đã đến điểm cuối cùng.

Bân dự tính cho thời gian chuyến đi này là 1 năm ,khi trong 1 năm này hắn đã đào tạo được khá nhiều nhân sự, tuy mới là dạng sơ cấp nhưng nhiều người thông minh và được Thị Vân cũng như các bô lão đào tạo từ trước nên có trình độ văn hóa khá cao.

Tất cả chỉ phải học chữ mới , một số kiến thức mới nên những người này được đào tạo khá nhanh và chuyển đi công tác bên ngoài luôn.

1 số người được Bân cho học mã mos và quy định bảng chữ dùng cho mos riêng biệt trong 1 hoặc vài cuốn sách.

Bân bắt buộc phải đào tạo họ vì địa bàn của họ lúc này quá xa , bộ đàm quân sự cũng không dùng được nên bắt buộc phải có máy điện tín.

Máy điện tín Bân dùng là enigma của quân đức quốc xã và máy điện tín bộ gõ, không phải vì lí do bảo mật như trong chiến tranh mà là vì nó nhỏ gọn, dễ cất dấu, sau này hắn sẽ cho người nghiên cứu chế tạo từ máy đời đầu đến eniama nhưng có vẻ sẽ khá lâu, nhưng hiện tại không có thời gian.

Máy enigma quá hiện đại so với thời này để chế tạo nhưng dạy người dùng vẫn được vì học cách sử dụng luôn dễ hơn học cách chế tạo, một người có bằng cấp 2 hoặc 3 có thể học được cách sử dụng nó.
Thằng cha người Mãn kia thế mà nhờ những chiếc máy enigma thu được thời chiến tranh thế giới 2.

Hắn đã mở 1 công ty ma ở HAITI đặt hàng 1 công ty của Mĩ để làm bản thiết kế máy enigma, máy gõ, sau đó đặt hàng bên trung quốc 1 loạt phụ tùng theo mẫu cho 1 công ty TQ rồi chuyển về xưởng Haiti lắp ráp.

Vì Vậy mà trong cái đai có rất nhiều máy enima cũng nhưng các phụ tùng thay thế của nó.
Vậy là hắn mất thời gian từ năm 605- đầu 606 ngoài việc dạy dỗ các kiến thức mới về y học, khoa học tự nhiên, xã hội và giúp mọi người chữa bệnh, trồng trọt tăng năng suất và chăn nuôi các loại giống như bò vàng, bò sữa, trâu, dê , lợn công nghiệp.

buổi tối lúc 8h hắn dành 2-3 tiếng để chỉ dạy cho các nhân viên có đầu óc và nhanh nhạy nhất mà hắn nhìn có thể học môn khó nhằn này,học mã mos và cách sử dụng máy truyền tin từ các bản đời cũ cũng như mô hình enigma.
Bân biết máy mã mos do bố hắn dạy 1 chút để khoe con cái, hắn có lên mạng tìm hiểu và học cách sử dụng nó để truyền tin với mấy thằng bạn thân cùng lớp khi có giờ kiểm tra, mỗi thằng chỉ cần 1 môn giỏi,kiểm tra 1 môn thì mỗi thằng học 1 đoạn là ok.

Giờ hắn đã học nằm lòng cách truyền tin mã mos.
Cuối cùng sau hơn 1 năm miệt mài dạy học thì người của hắn có thể sử dụng thành thạo mã mos và có thể gõ chữ cúng như đánh máy.

Tất nhiên sử dụng với tốc độ thần sầu của lính thông tin trong các cuộc chiến tranh của người hiện đại là không thể nào, người lính truyền tin tính bằng cả trăm từ mỗi phút.


Vì trên chiến trường cuộc sống, tính mạng, quyết định then chốt chiến trường tính bằng phút bằng giây, chưa kể kinh nghiệm được truyền dạy lại qua nhiều thế hệ, người dạy lại cho tân binh có trình độ rất cao.

Việc người của hắn đạt đến trình độ này cần thời gian, giáo viên truyền dạy cũng là con gà mờ nên tốc độ như hạch.
Nếu bảo 1 cựu chiến binh việt nam thời cuộc chiến bảo vệ Biên giới Tây Nam, hay chiến tranh chống Mĩ, CTTG 2 thì người ta cười ỉa vì mày đánh tốc độ chậm như rùa, mày đánh xong chắc quân địch giết hết quân mình rồi.

Cố đánh lắm suốt thời gian qua nhưng đánh được tốc độ trung bình thấp.

Hiện tại hắn và nhân viên thông tin của mình đang nhận và gõ điện báo để báo cáo và thu báo cáo từ căn cứ để xem xét tình hình.

Chuyến này hắn có khả năng đi hơi lâu nên cần phải cóp thông tin đi theo liên tục với máy phát điện bằng tay.
Bân hiểu đạo lí sướng trước khổ sau 1 năm thay đổi rất nhiều thứ , mặc dù các công trình khoa học không có nhưng cũng làm thay đổi nhiều trong cuộc sống của người Việt tại căn cứ và các làng bản quy phục.

Trong 1 năm này lợi dụng quân Tùy lơ là cảnh giác do không đủ người vì mang quân đánh Lâm Ấp và cũng như sự nhốn nháo với các đoàn quân đi về, cũng như niềm tin chắc rằng đã bình định xứ này.

Sóng ngầm bắt đầu chảy khi hắn chuẩn bị cho chuyến đi này.
Hắn biết 1 điều Mĩ, Anh, Đức quốc xã, Nhật, TQ hiện đại, Liên Xô hoặc Nga làm bá chue thế giới hiện đại không có gì thoát khỏi ngành tình báo.

Chính vì thế hắn cũng cố gắng với lão Lão Lâm xây dựng nó, lúc này trống người nên hắn cố gắng lo lót cho những người của mình vào từ những vị trí thấp bé.

Đừng nghĩ những vị trí thấp bé là vô dụng vì những thông tin cần kíp đều từ nó mà ra, nó lại khó phát hiện, chi phí xây dựng rất thấp, nbos được rất nhiều cơ quan tình báo từ cổ đến hiện đại sửu dụng.

Ai có tài thì từ từ vị trí thấp bé đi lên vị trí cao lúc đấy sẽ không bị nghi ngờ, còn không thì cứ ở vị trí thấp nhưng thu nhặt những thông tin bên lề hay thông tin mật giới hạm người xem nhưng lại có thể từ đó điều tra kế hoạch lớn.
Trong hơn 1 năm này hắn cố gắng nhất có thể do có nhiều việc, hắn cũng cố gắng vài năm mệt nhọc và đào tạo nhân sự thay mình làm những việc lặt vặt và 1 số việc lớn.

Sau đó, dễ thở mà sống vì hắn còn quá bé, nếu làm việc nặng nhọc thế này tim hắn không chịu nổi.

Lại giống Nguyễn Hiền trạng nguyên trẻ nhất Việt nam tí tuổi đầu nhưng lại làm chức quá cao,.


Lượng công việc khổng lồ vắt kiệt sức lực của ông, 13 tuổi trạng nguyên , 18 tuổi thượng thư 1 bộ , cuối cùng chết bất đắc kì tử năm 21 tuổi chỉ trong ít năm ngắn ngủi cống hiến.

Do phát huy quá sớm cũng như sức khỏe không cho phép, tý tuổi đầu làm đủ việc lớn như đắp đê, đi sứ, đánh giặc,nếu như ông tầm 18 tuổi mới ra triều làm quan thì có khả năng sẽ không chết sớm như vậy.
Bân không muốn vào vị trí đó, hắn cần sống thọ ít nhất cũng được như thế giới hiện đại người Việt.

Chính vì thế hắn cố gắng làm việc và sinh hoạt điều độ, luyện tập hợp lí, may mắn thời này không khí trong lành không ô nhiễm cũng với đống đồ hiện đại thì chắc hắn sẽ để cho hắn và con hắn sống thọ.
Trong căn cứ và các trại và làng mới thu phục ngoài 1 số vị trí trồng lúa giống cũ ra thì còn lại dùng toàn giống mới.

Vụ mùa bội thu, 3-4 tháng thu hoạch 1 lần, sản lượng cao ngoài giống lúa còn có cách canh tác mới, ngoài ra còn công cụ bằng sắt, sản lượng tăng hơn 3 lần.

Bân cùng người của mình đi khắp các vùng mình quản lý, tìm hiểu đời sống, chữa bệnh , bắt các cách sinh hoạt mới.

Phân phát trâu bò giống mới để nuôi , tiện thể xem các chỗ có làm đúng như hắn chỉ dẫn về chuồng trại không.

Chưa kể còn có lợn lai kinh tế và gà hắn mới chỉ cho lợn là căn cứ, 2 trại thu phục và 2 bản Mường nuôi.

Vì mấy chỗ này có sự bí mật và dễ tập trung để sản xuất số lượng lớn , còn gà thì thoải mái.

Mọi công việc diễn ra thuận lợi, chỗ lúa cũ thì mang nộp thuế, lúa mới dùng để ăn và tiếp tế cho các khu vực mở căn cứ mới.

Hắn cần vùng hậu cần ổn định để sản xuất quân lương và trang bị vì nó là thứ then chốt hắn phục quốc sau này.
Ngoài ra các xưởng mộc và luyện thép cũng có những bước tiến đáng kể.Người Việt thiếu sắt nhưng không thiếu đồng, thực sự sắt luyện từ quạng thiếu vô cùng thiếu vô cùng.

Nền công nghiệp của người Việt trong thời gian trăm năm có lẽ có chút khởi sắc từ sau khi nhà Tấn bị phân chia ra thời kì thập quốc nhưng thực tế vẫn là đi sau người Hoa Hạ.

Nền công nghiệp lạc hậu tiểu thủ công không thể đám ứng nhu cầu phát triển của xã hội.


Không nói sắt chỉ nói đồng thôi, nếu hiện tại chỉ dùng cho sản xuất đồ dùng và đồ thủ công mĩ nghệ thì ok.

Tuy nhiên nếu sang chiến tranh và lập quốc thì con số đó không đủ vì còn phải chế tạo vũ khí như áo giáp, phụ kiện vũ khí, đúc tiền.

Đó là con số khổng lồ, đó là lí do vì sao mà Hồ Qúy Ly và các triều đại phong kiến các cuộc chiến tranh người Việt họ phải bắt đổi tiền và phá tượng phật, đồ thờ cúng cũng như dồ gia dụng để đúc súng, đạn pháo.

Đó mới là đồng thôi đấy , sắt còn kinh khủng hơn nhiều
Đất Việt Nam thiếu mỏ sắt, không hề,Việt Nam là một vùng rộng lớn với nhiều tài nguyên.

Riêng mỏ sắt được phát hiện trải dài từ bắc vào nam lãnh thổ Việt Nam.

Quặng sắt là không thiếu nhưng sắt tinh luyện thành phẩm lại thiếu thốn vô cùng.

Đây là vì công nghệ nung rèn kim loại của người Việt lúc này vẫn còn thua người Hán, thua ở quy mô, thua ở công nghệ, thua ở quản lý và tổ chức.

Dẫn đến người Việt thiếu thiết nghiêm trọng, đó cũng là lí do mà các triều đại sau nhà Tấn của họ Tư Mã nới lỏng lệnh cấm sắt cho người Việt.

Vừa tăng sản lượng quặng sắt khai thác, lại có thằng làm công đoạn nung rèn thô cho mình, về đến đất người Hán thì rèn lại tý là xong, bớt bao nhiêu nhân lực mà vẫn có nhiều thép phục vụ cho mình, ngu gì không làm.
Quan sát lò nung quặng sắt của xưởng vẫn chỉ là các lò lẻ được đắp bằng đất, cao lanh cao tầm 1m đường kính 40-50cm.

Mỗi lò như vậy cả công tác chuẩn bị và đốt thì cả tuần mới cho ra được 10-15 kg sắt gọi là non.

Tuy nói có hiện đại hơn lò thép sử dụng của triều đại nhà Hán hay Tam Quốc nhưng còn lâu mới bằng người Hán bây giờ.Vì chiến tranh và để đáp ứng nhu cầu nên họ đã cải tiến khá nhiều trong vài trăm năm qua.

Nói trắng phớ là hiện tại công nghệ người Việt rất lạc hậu so với họ, cho dù dựng cả chục cả trăm lò như vậy thì tốc độ vẫn là rất chậm.

Thêm vào đó chất lượng sắt của mỗi lò là không đồng đều, có lò may mắn chất lượng tốt, lò không đúng chất lượng tồi, tạp chất nhiều.

Công việc loại bỏ tạp chất bằng rèn gò lại tốn rất nhiều công đoạn và thời gian, chưa kể họ còn cho các phụ phẩm vào để tăng độ cứng của sắt vốn đã đầy tạp chất.Bân quyết tâm phải cải biến tình hình này, công nghiệp hóa hiện đại hóa không thể thiếu đi sắt thép cơ bản.

Nếu không giải quyết được nguyên liệu sắt thép thì hắn đừng mong nghĩ tới những điều khác.
Tiểu thuyết mạng xuyên không bên Tàu thì Bân cũng có đọc qua nhất là các loại về quá khứ, không nói đến hiệu ứng cánh bướm nhưng những quả phát kiến khoa học chỉ bằng lời nói thì thật là vãi chưởng.


Các nhân vật hiện đại cứ xuyên về là xây dựng lò cao luyện thép sau đó sẽ thành công và bá chủ.

Nhưng khi Bân chính thức bắt tay vào thiết kế và chuẩn bị một dây truyền luyện thép thì hắn mới biết được rằng các tiểu thuyết gia thực sự là viễn vông và lười nhác.
Không phải cứ xây dựng một cái lò thật bự sau đó ném than , quặng sắt vào thì kết quả sẽ cho ra thiết tinh.

Kẻ nào nghĩ chuyện này đơn giả thì đó chính là thằng ngu, thằng đần.thách thằng nào dám đứng cạnh mấy cái lò đấy, đảm bảo sẽ bị nổ lò và đi về lòng đất luôn.

Đấy là hắn còn cho mấy tay thợ lúc này chỉ có mấy việc vặt làm đồ gia dụng nên có thời gian đọc tư liệu xây dựng lò cũng như vi deo xây lò hay các video nung rèn sắt ở các lò trung quốc, phương tây và cả Việt Nam rồi đấy.

Cũng cho họ xem các tai nạn nổ lò, đám đấy khi làm lò mới và cho nguyên liệu mà cứ run cầm cập, hắn đành cho xây tường bao dày xung quanh lò và đào hào có nắp che để giảm nhẹ thiệt hại nếu nổ lò.
Ấy vậy mà có tới 4 cái lò nổ, may mắn những người có kinh nghiệm đã nhìn thấy dấu hiệu và bảo mọi người tránh kịp nên chỉ có 1 số người thương nhẹ, nếu không chết cả đám.

Cái lò mới phải cho lò đốt cháy liên tục trong 5 ngày với nhiệt độ cao nhất xong mới cho nguội từ và cho người xem xét trong ngoài mới công nhận nó đã qua thử nghiệm.

Tiếp tục các mẫu thử tiếp theo, chọn cái lò nào tốt nhất, ngoài ra Bân còn làm kiểu công nghiệp đó là phân cái nào làm đồ dân dụng , đồ phụ kiện, lò nào làm vũ khí để tối đa hóa nguyên liệu, đỡ công nung rèn tăng chi phí mà các lò vẫn sản xuất theo kiểu công nghiệp được.
Bân cùng mấy người thợ rèn sắt vắt óc thức trắng đêm 4 ngày liên tục mới tạm thời cho ra được sơ bộ bản vẽ kế hoạch về lò cao luyện kim.

Hắn giờ đây bắt đầu công cuộc chuẩn bị, hàng trăm thợ rèn thợ mộc được vơ vét từ khắp nơi xung quanh căn cứ và mấy vùng chiếm được cũng như nô lệ có nghề rèn mua về trong đợt chiến tranh này.

Vì vậy có cả người Lâm ấp, Việt, người châu Âu da trắng mắt xanh, người da đen, da lai, Ả rập, ấn độ.
Nhiều vùng đất đang thời kì loạn lạc, nhiều vùng đất đang tranh chấp, nhiều quốc gia chưa định hình như thời thế kỉ 15 nên nô lệ đủ loại từ thợ thuyền, thợ thủ công Mĩ Nghệ, thợ dệt may, quý tộc,binh lính thậm chí thương nhân bị thất bại hoặc bị cướp bị bán làm nô lệ.

Do Bân chỉ trong nội địa chưa có cảng biển nên hắn không mua được nhiều nô lệ, chỉ cho người lên các thành lớn mua, ngoài ra chỗ Giao Châu nghèo rớt mùng nơi này ít có thương buôn , chủ yếu là lấy sản vật địa phương mà phía bắc không có hoặc dưng lại tiếp tế lương thực, nước ngọt sau đó bay hết lên các vùng đất người Hán để trao dổi buôn bán
Thời này các thương nhân đã có đi biển ven bờ buôn bán, ngoài ra còn có con đường tơ lụa, buôn bán nô lệ vẫn có rất nhiều, dù thế giới đã chuyển sang chế độ phong kiến nhưng vẫn còn chế độ nô lệ.

Thời gian này Lão Phần đã cố gắng đi buôn bán nơi xa hơn như long biên hay biên giới các châu quận phái bắc, chưa kể lão còn lập được thêm 1 thương đoàn nữa để làm những công việc khác.

Bân đã bảo lão khi nào lập được 3-4 thương đoàn là có thể ngồi 1 chỗ mà quyết sách rồi,Bân cũng tẩm bổ cho lão này nhiều thứ hiện đại.
Quay về việc lò sắt của Bân, thực tế lò cao cấu tạo không phức tạp, kể tử cao đến thấp đó chính là miệng lò, chính là nơi nguyên liệu như than, quặng sắt được quẳng vào, Thân lò thuôn nhỏ sẽ chứa đầy than được đốt nóng trong quá trình luyện sắt, Bụng lò hơi phình lớn là nơi chứa nhiều nhiên liệu than nhất và cũng là nơi có nhiệt độ tích trữ cao nhất, phía đáy của Bụng lò sẽ có hai cửa để thổi không khí giàu oxy vào, Nồi lò thu hẹp là phần kết nối với Bụng lò, giữa nồi lò và bụng lò là nững ống thông như hình than tổ ong để gang thiết nóng chảy từ bụng lò chui xuống nồi lò.
Nồi lò có hai cửa thông ra ngoài, cửa phía trên cao để tháo sỉ và tạp chất ra ngoài, cửa thấp để tháo gang sắt thuần khiết đi ra.